Tên húy: | Nguyễn Kim 阮 淦 |
Giới tính: | Nam |
Tình trạng: | Đã mất |
Tên thụy phong: | Triệu Tổ Tịnh Hoàng Đế 太 祖 嘉 裕 皇 帝 |
Ngày giờ sinh: | // |
Ngày giờ mất: | // |
Mộ táng tại: | Lăng Trường Nguyên, núi Triệu Tường, Quí Hương, Quí Huyện, Thanh Hóa |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
1 | Nguyễn Uông | // | Đã mất |
2 | Nguyễn Thị Ngọc Bửu | // | Đã mất |
3 | Nguyễn Thị ... | // | Đã mất |
4 | Nguyễn Hoàng 阮 潢 | // | Đã mất |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><strong><span style="font-size: 18pt; font-family: tahoma, sans-serif; color: red;"><img alt="" src="/StoreData/GpData/3212/01.png" /><br />
</span></strong></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><strong><span style="font-size: 18pt; font-family: tahoma, sans-serif; color: red;"><br />
</span></strong></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><strong><span style="font-size: 18pt; font-family: tahoma, sans-serif; color: red;">ĐỨC TRIỆU
TỔ TĨNH HOÀNG ĐẾ</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><br />
<br />
</span><strong><span style="font-size: 18pt; font-family: arial, sans-serif; color: blue;">HÚY</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><br />
</span><strong><span style="font-size: 18pt; font-family: arial, sans-serif; color: blue;">NGUYỄN KIM</span></strong><span style="font-size: 18pt; font-family: arial, sans-serif; color: blue;"><br />
</span><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">(1468
- 1545)</span></strong><strong><span style="font-size: 13.5pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><br />
</span></strong><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">Hệ
I Tiền Biên</span></strong></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt; text-align: center;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> <o:p></o:p></span></p>
<div class="MsoNormal" style="text-align: center;"><span style="font-size: 10pt; line-height: 115%; font-family: tahoma, sans-serif;">
<hr size="2" width="44%" align="center" />
</span></div>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">1.1. - Thân thế và sự nghiệp</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Đế
húy là Nguyễn Cam con đầu của Trừng Quốc công </span><a href="http://members.tripod.com/~Nguyen_Phuc_Toc/thuy-pha/thapngu-to.htm"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">Nguyễn Văn Lựu</span></strong></a><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">. Bà mẹ họ Mai, tên
húy không rõ. Ngài sinh năm Mậu tý (1468), ngày tháng sinh không rõ.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Thời trai trẻ, ngài tài
kiêm văn võ. Ban đầu ấm thụ làm quan coi lính. Đến đời vua Lê Chiêu Tông
(1516-1524) ngài giữ chức Tả vệ Điện tiền Tướng quân, tước AnTĩnh Hầu, trông
coi tỉnh Thanh Hóa.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Đinh hợi (1527), Mạc
Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ngài đem thuộc hạ tránh sang nước Ai Lao mưu việc
khôi phục, lúc đó ngài đã 59 tuổi. Vua Ai Lao là Sạ Đẩu cắt cho ngài châu Sầm
để ở. Ngài chiêu tập những người trung dũng, gởi con thứ là Nguyễn Hoàng, mới
hai tuổi, cho em vợ là Nguyễn Ư Kỷ nuôi dạy để mình tiện lo việc lớn.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Kỷ sửu (1529), ngài
đem quân về Thanh Hóa đáng nhà Mạc, thắng trận liên tiếp.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Canh dần (1530), quân
ngài bị tổn thất. Ngài phải tạm lui về Ai Lao chỉnh đốn lại binh mã.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Quý tỵ (1533) ngài
cùng các tướng dò tìm được Lê Ninh (con của vua Lê Chiêu Tông), 18 tuổi, lập
lên ngôi tức vua Lê Trang Tông. Từ đó, hào kiệt theo về càng đông. Ngài được
vua Lê phong chức Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công Chưởng nội ngoại sự.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Quí mão (1543) vua Lê
tiến quân từ thành Tây Đô (Thanh Hóa) ra Bắc, sai người mang chiếu thư sang Ai
Lao gọi ngài về. Vua gia phong ngài làm Thái tể Đô tướng Tiết chế tướng sĩ chư
dinh thủy bộ. Ngài tiến quân đến đâu thắng đến đấy.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Ất tỵ (1545) ngài
định tiến ra Đông Đô (Thăng Long) nhưng bị lụt phải trở về Thanh Hóa, đóng quân
ở Yên Mô (Ninh Bình). Hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất dâng quả dưa có
thuốc độc để hại ngài. Ngài mất ngày 20 tháng 5 năm Ất tỵ (28-6-1545), thọ 78
tuổi.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">1.2. - Lăng, Miếu thờ và các tước hiệu được
truy tôn</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Được tin ngài mất, vua Lê
vô cùng thương tiếc, truy tặng ngài tước, Chiêu Huân Tĩnh Công, thụy là Trung
Hiếu.Linh cữu ngài được đưa về Bái Trang, huyện Tống Sơn (Thanh Hóa), táng tại
núi Thiên Tôn. Khi táng, trới nổi mưa gió sấm chớp, ai cũng sợ hãi bỏ chạy. Lúc
trời tạnh trở lại thì đá núi, cây cỏ tươi tốt, không biết huyệt táng nơi nào
nữa.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Giáp ngọ (1594) vua
Lê Thế Tông truy tặng ngài: Chiêu Huân Phụ Triết Tĩnh Công.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Đời Tiên Vương (Chúa
Tiên) ngài được truy tôn: "Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vỹ Tích
Chiêu Huân Tĩnh Vương".<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Đời Vũ Vương, ngài được
truy tôn: "Di Mưu Thùy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vỹ
Tích Chiêu Huân Tĩnh Vương".<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Bính dần (1806) vua
Gia Long truy tôn ngài: "Di Mưu Thùy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành
Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh Hoàng Đế". Miếu hiệu là Triệu Tổ.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Quý hợi (1803) vua
Gia Long cho dựng Nguyên Miếu gồm ba gian hai chái ở phía đông núi Thiên Tôn
gọi là miếu Triệu Tường để thờ hai ông bà.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Giáp tý (1804) vua
Gia Long cho dựng Triệu Miếu trong Hoàng thành để thờ ngài. Mỗi năm làm lễ kỵ
vào ngày 20 tháng 5 âm lịch và 5 lễ hưởng: Xuân hưởng (mồng 8 tháng giêng Â.L.)
Hạ hưởng (mồng 1 tháng 10 Â.L.), Thu hưởng (mồng 1 tháng 7 Â.L.), Đông hưởng (mồng
1 tháng 10 Â.L.), và Hợp hưởng (22 tháng 10 Â.L.).<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Mậu thìn (1808) vua
Gia Long đặt tên lăng ngài là Trường Nguyên. Vì lăng không có dấu tích nên xây
một nền vuông dưới chân núi để làm chỗ bái yết.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Năm Tân tỵ (1821) vua
Minh Mệnh đổi tên núi Thiên Tôn là núi Triệu Tường. Năm Nhâm ngô (1822) vua
Minh Mệnh cho sửa Triệu Miếu và dựng bia ở lăng Trường Nguyên để tỏ rõ công
nghiệp của đức Triệu Tổ. Bài minh như sau:<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><em><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">"Đất lớn chúa thiêng, sinh ra Triểu Tổ,<br />
<br />
Vun đắp cương thường, nêu rạng Thánh Võ<br />
<br />
Nghĩa động quý thần, công truyền vũ trụ<br />
<br />
Cõi trần rời bỏ, lăng ở Bái Trang<br />
<br />
Non nước bao bọc, sầm uất tùng xanh<br />
<br />
Khí thiêng nhóm họp, đời xương vinh<br />
<br />
Mệnh trời đã giúp, con cháu tinh anh<br />
<br />
Võ công dựng nước, bèn tìm gốc nguồn<br />
<br />
Truy tôn, dựng nước, lăng gọi Trường Nguyên<br />
<br />
Tân tỵ Bắc tuần, đến dây dựng lại<br />
<br />
trông ngắm non sông, nhớ đến gốc cõi<br />
<br />
Khắc chữ vào bia, lưu ức vạn tái."</span></em><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><em><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> </span></em><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">Đức Triệu Tổ Tĩnh
Hoàng Đế là khai quốc công thần của nhà Lê trung hưng. Tuy giữa chừng bị hại
nhưng công trạng to lớn của ngài sử sách đều ghi rõ.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Ngài là Thủy tổ của họ
Nguyễn Phúc ở miền Nam. Ngài khai sáng ra hệ I trong Nguyễn Phúc Tộc.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 13.5pt; font-family: tahoma, sans-serif;">1.3. - Gia Đình<br />
<br />
</span></strong><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
1.3.1. Các vị phu nhân<br />
<br />
</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">Theo
một số gia phả ngài có 3 phu nhân<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
<strong>1.3.1.1 Nguyễn Thị Mai - Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Hậu</strong><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Bà húy là Nguyễn Thị Mai, con ông Nguyễn Minh Biện (quê ở Phạm Xá, tỉnh Hải
Dương, làm quan triều Lê, chức Đạc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Thư Vệ Sự).
Tiểu sử không rõ.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Bà là người thuần hậu, đức hạnh trọn vẹn toàn. Bà mất ngày 23 tháng giêng Âm
lịch, năm mất không rõ. Bà táng tại núi Thiên Tôn với đức Triệu Tổ, nhưng không
làm lăng riêng.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Năm Giáp tý (1748), Chúa Vũ Vương truy tôn Bà: "Từ Tín Chiêu Ý Đức Phi',
về sau thêm hai chữ Hoằng Nhân.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn Bà: "Từ Tín Chiêu Ý Hoằng Nhân
Thục Đúc Tĩnh Hoàng Hậu". Bà Được phối thờ với đức Triệu Tổ ở Triệu Miếu
trong Hoàng thành, Tên lăng của Bà là Vĩnh Nguyên.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
<strong>1.3.1.2 Đỗ Thị Tín - Thứ phu nhân</strong><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Bà húy là Đỗ Thị Tín, tiểu sử không rõ.<br />
<br />
Bà sinh ra Thái phi Ngọc Bảo<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
<strong>1.3.1.2 (khuyết danh) - Thứ phu nhân</strong><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
<strong> 1.3.2. Con trai và con gái</strong><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"> Ngài
có 3 người con: 2 trai và 1
gái
<o:p></o:p></span></p>
<table class="MsoNormalTable" border="0" cellspacing="0" cellpadding="0" width="50%" style="width: 50%; border-collapse: collapse;">
<tbody>
<tr>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Con trai</span></p>
</td>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Con gái</span></p>
</td>
</tr>
<tr>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"> </p>
</td>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"> </p>
</td>
</tr>
<tr>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">1. Nguyễn Uông</span></p>
</td>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">1. Nguyễn Thị Ngọc Bảo</span></p>
</td>
</tr>
<tr>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">2. </span><a href="http://members.tripod.com/~Nguyen_Phuc_Toc/vuong-pha/02_nguyenhoang.htm"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">Nguyễn Hoàng</span></a></p>
</td>
<td style="width: 50%; padding: 0in;">
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"> </p>
</td>
</tr>
</tbody>
</table>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
1.3.3.1A. Nguyễn Tông Thái - Uy Xuân Hầu</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Ông húy là Nguyễn Tông Thái, em của đức Triệu Tổ, lai lịch không rõ.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Ông làm quan đời nhà Lê, chức Điện tiền Đô tổng binh sứ, tước Uy Xuân Hầu. Dưới
triều Lê Trang Tông, ông được phong chức Đảng Khấu Tướng Quân coi ba tỉnh Lạng
Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên, chống nhau với nhà Mạc vài mươi năm. Sau bắt được
Mạc Kính Dụng, ông được phong làm Thái Nguyên - Cao Bằng Phủ Quân Sự.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Bà vợ là Bế Thị Khương. Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh con cháu sợ họ
Trịnh nên đổi ra họ Bế. Dưới triều vua Gia Long, chi họ này được ban công tình
Nguyễn Hựu. Chi họ này ở Bắc Khê, tỉnh Cao Bằng.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
1.3.3.1C. Nguyễn Ư Kỷ - Thái phó Uy Quốc Công</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;"><o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
</span></strong><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Ông húy là Nguyễn Ư Kỷ, em ruột của Triệu Tổ Tĩnh Hoàng Hậu. Ông quê quán ở Hải
Dương, con của ông Nguyễn Minh Biện (làm quan triều Lê với chức Đặc Tiến Phụ
Quốc Thượng Tướng Quân Thự Vệ Sự).<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Ông làm quan triều Lê đến chức Thái phó Uy Quốc Công.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Năm Đinh hợi (1527) Mặc Đang Dung đoạt ngôi nhà Lê, Triệu Tổ gởi con thứ là
Nguyễn Hoàng cho ông để lo việc nước. Ông hết lòng chăm sóc.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Khi Đức Triệu Tổ mất, Thái Tổ ra làm quan với triều Lê được phong làm Thái bảo
Đoan Quốc Công. Trịnh Kiểm ghen muốn hại, ông khuyên Thái Tổ giả cuồng, cử chỉ
tỏ ra thất thường để Trịnh Kiểm khỏi để ý. Về sau, Trịnh Kiểm quyết tâm mưu
hại, Thái Tổ kinh hãi, bàn mưu với ông, ông nói: "Kiểm đã cố tâm mưu hại,
cần phải tránh xa. Đất Thuận Hóa hiểm trở, vững chắc có thể giữ yên thân mình
cháu nên nhờ chị Ngọc Bảo (chính phi của Trịnh Kiểm) nói với Kiểm xin trấn giữ
đất này để mưu đồ việc lớn về sau". Thái Tổ nghe theo và nhờ người nói với
chính phi, phi lựa lúc nói với Trịnh Kiểm. Kiểm cho rằng Thuận Hóa là vùng đất
ác chướng, lại có tướng nhà Mạc đóng ở đấy, muốn mượn tay nhà Mạc hại Thái Tổ,
bèn xin vua Le phong cho Thái Tổ giữ đất này.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Ông lấy tình thân thuôc bảo hộ cho Thái Tổ, mở mang nghiệp lớn. Ông cùng với
Tống Phúc Trị, Mạc Cảnh Huống là những bậc khai quốc công thần giúp Thái Tổ lập
nên vương nghiệp.<o:p></o:p></span></p>
<p style="margin: 0in 0in 0.0001pt;"><span style="font-size: 10pt; font-family: tahoma, sans-serif;">
Khi mất, ông được thờ tại Nguyên Miếu ở Gia Miêu Ngoại Trang. Đến năm Giáp thìn
(1844) vua Triệu Trị truy tặng là "Khai Quốc Công Thần Đặc Tiến Tráng Võ
Tướng Quân Trung Quân Đô Thống Phủ Chưởng Phủ Sự Thái Sư", thụy là Trung
Trinh, tước là Uy Quốc Công và cho thờ tại Hữu vu của Thái Miếu.<o:p></o:p></span></p>
<span style="font-size: 10pt; line-height: 115%; font-family: tahoma, sans-serif;">
Người con trưởng của ông là Nguyễn Đình Dũng theo ông vào Nam làm quan đến chức
Thái bảo Quận Công. </span>
<div><span style="font-size: 10pt; line-height: 115%; font-family: tahoma, sans-serif;"><br />
</span></div>
<div><span style="font-size: 10pt; line-height: 115%; font-family: tahoma, sans-serif;"><span id="docs-internal-guid-7d602672-7fff-8df7-8795-a64aa79932f3">
<p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-top: 0pt; margin-bottom: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt; font-weight: 700; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; font-family: "times new roman";">Theo phả Họ Nguyễn Gia Miêu</span></p>
<p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-top: 0pt; margin-bottom: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt; font-weight: 700; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; text-decoration-line: underline; text-decoration-skip-ink: none; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; font-family: "times new roman";"><span style="font-size: 14pt; text-align: left; font-family: "times new roman";">+ Đời thứ Tư: </span>Chiêu Huân Tĩnh công huý Kim,</span><span style="font-size: 14pt; font-weight: 700; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; font-family: "times new roman";">nay là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế</span><span style="font-size: 14pt; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; font-family: "times new roman";">con cả Trừng Quốc công. Sinh 2 trai 1 gái. Con trai cả là Lãng Quận công, con trai thứ hai là Cẩn Nghĩa công. Con gái là Trịnh Minh Khang Thái Vương Thái phi. Cụ là người văn võ tài lược. Lúc đầu được làm quan Điển binh. Đến đời Lê Quang Thiệu (1516), cụ làm quan đến chức Điện tiền Tướng quân Hữu vệ Thanh Hóa, tước An Thanh hầu. Đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, chạy vào Thượng …. Thanh Hoa, cụ có hơn 5000 tráng sĩ, 30 thớt voi,ngày đêm tập hợp luyện tập chống nhau với kẻ thù để khôi phục, kết với chúa Ai Lao là Sạ Đẩu viện trợ để phò triều Lê diệt Mạc. Hào kiệt bốn phương nghe tin đều theo về. Cụ cho người đi khắp nơi dò tìm con cháu nhà Lê. Mùa xuân năm Quý Tị, cụ đưa Hoàng tử nhà lê từ Ai Lao về đến Sách Thúy... thì tôn lập vua Trang Tông, đổi niên hiệu là Nguyên Hòa năm thứ nhất (1533). Vậy là vua triều Lê lại tiếp tục và cụ được phong Đại tướng quân Hưng Quốc Công. Ra lệnh cho các tướng đánh giặc. Chia quân ra các ngả tiêu diệt quân nhà Mạc. Các hào kiệt tụ hợp hưởng ứng.</span></p>
<p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-top: 0pt; margin-bottom: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; font-family: "times new roman";"><43></span></p>
<p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-top: 0pt; margin-bottom: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; font-family: "times new roman";">Mùa xuân năm Quý Mão, Mạc Kính Điển nhà Mạc đến xâm chiếm, cụ cho quân đánh dẹp, đại thắng. Cụ ổn định các châu huyện, chia các tướng sĩ trấn giữ các nơi. Tháng 3 tiến về Gia Viễn đánh bại tướng nhà-Mạc. Chia quân chiếm đóng đồn, chiếm giữ, định đến tháng 9 đánh vào Đông Đô, quân nhà Mạc khiếp sợ. Nhưng gặp mùa thu trời mưa dầm nên việc không thành, bèn ra lệnh tạm rút về. Năm Giáp Thìn, vua Lê trở lại Tây Đô đánh nhà Mạc. Lúc bấy giờ cụ động viên chư quân còn ở Ai Lao (Lào). Vua Lê sai Trịnh Công Năng triệu Cụ về. Cụ sửa sang chỉnh đốn rồi lập tức lên đường về. Vua Lê vui lắm, gia phong cụ là Thái tể Tiết chế Chư dinh, sai chia các đạo tiến quân vỗ về ổn định các huyện. Năm Bính Ngọ (1546) đem quân về Sầm Hạ. Ngày 20 tháng 5 cụ mất, hưởng thọ 78 tuổi. Mộ táng tại núi Thiên Tôn. Vua Lê Trang Tông vô cùng đau buồn, tặng cụ là Chiêu Huân Tĩnh Công- Thái phi (cụ bà) họ Nguyễn, thụy là Từ Tín giỗ ngày 23 tháng Giêng.</span></p>
<p dir="ltr" style="line-height: 1.38; margin-top: 0pt; margin-bottom: 0pt; text-align: justify;"><span style="font-size: 14pt; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; font-family: "times new roman";">
</span></p>
<div><span style="font-size: 14pt; font-variant-numeric: normal; font-variant-east-asian: normal; vertical-align: baseline; white-space: pre-wrap; text-align: right; font-family: "times new roman"; color: #ff0000;">Theo Phả Gia Miêu (Bản dịch). Bản gốc của chi Nhất Nguyễn Đức Trung, làng Mậu Thịnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.</span></div>
</span>
<!--[if !supportLineBreakNewLine]--><br />
<!--[endif]--></span></div>