Tên húy: | Ngài Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎) |
Giới tính: | Nam |
Tình trạng: | Đã mất |
Tên tự (Là tên tự gọi): | Niên hiệu: Gia Long (嘉隆) 1802-1820 |
Tên thụy phong: | Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế (世祖 高皇帝) |
Ngày giờ sinh: | // |
Ngày giờ mất: | // |
Mộ táng tại: | Lăng Thiên Thọ, Định Môn, Hương Trà, Thừa Thiên |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
1 | Anh Nguyễn Phúc Hạo [阮福暭] | // | Đã mất |
2 | Anh Nguyễn Phúc Đồng [阮福晍 | // | Đã mất |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
1 | Tống Thị Lan | // | Đã mất |
2 | Trần Thị Đang | // | Đã mất |
3 | Lê Thị Bình | // | Đã mất |
4 | Lâm Thức | // | Đã mất |
5 | Nguyễn Thị Tần | // | Đã mất |
6 | Phạm Thị Lộc | // | Đã mất |
7 | Hoàng Thị Chức | // | Đã mất |
8 | Tống Thị Thuận | // | Đã mất |
9 | Dương Thị Sự | // | Đã mất |
10 | Dương Thì Dưởng | // | Đã mất |
11 | Nguyễn Thị Điền | // | Đã mất |
12 | Trịnh Thị Thanh | // | Đã mất |
13 | Cái Thị Thu | // | Đã mất |
14 | Nguyễn Thị Vinh | // | Đã mất |
15 | Trần Thị Thế | // | Đã mất |
16 | Trần Thị Hàn | // | Đã mất |
17 | Phan Thị Hạc | // | Đã mất |
18 | Nguyễn Thị Uyên | // | Đã mất |
19 | Đặng Thị Duyên | // | Đã mất |
20 | Tống Thị Lâu | // | Đã mất |
21 | Nguyễn Thị Thụy | // | Đã mất |
VuaGia Long sanh năm 1762, mất năm 1819. Sau khi đã bình địnhnước Việt Nam, Ngài tức Hoàng Đế vị năm 1802 và khai sángra Nguyễn Triều.
Lăng của Ngài là lăng Diên Thọ, không mấy người không biết, thuộc địa phận làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Lăng Bà Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu và Bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, nguyên phối và đệ nhị phối cùa Ngài cũng đều táng tại vùng ấy cả.
Ngài và hai Bà đều thờ tại Chánh án Thế Miếu và tại Chánh án điện Phụng Tiên ở Kinh Thành Nội.
Hệ Nhứt Chánh gồm có 9 Phòng, tổng cộng về nam được 380 người (năm 1943).
(Trích Hoàng Tộc Lược Biên)
Ngài làHoàng Tử thứ 3 của Ngài Nguyễn Phúc Luân. lúc còn tuổi thơấu, Ngài rất được Chúa Nguyễn Phúc Thuần thương yêu, nênđược ở trong học đường Vương Phủ. Vào tuổi thiếu niên Ngàiđã tỏ ra là người tài trí, khôn ngoan với đức tính khoanhoà, đầy nghị lực của đấng lập nghiệp lớn.
Năm 1777khi Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, cùng với cháu làHoàng Thân Nguyễn Phúc Đồng (con Ngài Nguyễn Phúc Luân) vàTống Phước Thuận, Nguyễn Doanh Khoảng...bị Nguyễn Huệ bắttại Long Xuyên và đem về Sài Gòn giết, thì chỉ có một mìnhHoàng Thân Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn. Ngài chạy ra đảo ThổChâu (Hà Tiên) và từ đó mọi quyền hành quốc sự do Ngàithống lĩnh.
Năm 1778(16 tuổi) Ngài được ba quân suy tôn lên làm nguyên soáinhiếp chính quốc và khởi binh chiếm lại Gia Định.
Từ đó suốt24 năm, được sự ủng hộ của dân nghĩa hiệp vùng đất mớikhai hoá từ Gia Định đến Phú Quốc, từ Cà Mau đến Hà Tiên,Ngài đã vượt qua mọi gian nguy, bao phen vào sanh ra tử,kiên cường chống lại quân Tây Sơn. Cuối cùng Ngài khôiphục lại xứ Đàng Trong của các Tiên Chúa. Năm 1801 tiếnquân ra Bắc Hà, đánh bại hoàn toàn nhà Tây Sơn; năm 1802lập nên một nước Việt Nam thống nhất từ Nam chí Bắc, từmũi Cà Mau đến Ải Nam Quan như ngày nay.(26)
Sau khilên ngôi Hoàng Đế năm 1802, Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế đã xếpđặt lại cơ cấu điều hành quốc gia, cho soạn bộ luật GiaLong, thành lập Quốc Tử Giám, ấn định học hiệu và các loạithuế. Công cuộc cai tri đất nước được thuận lợi sau khithực hiện các việc lớn như: Tổ chức triều đình gồm có lụcbộ và Đô Sát Viện; phân chia khu vực hành chánh (Tổngtrấn, Trấn, Phủ, Huyện, Xã); ấn định quyền hạn chứcchương, lương bổng, văn võ giai các cấp, tu soạn sách sử,văn truyện, địa lý, lập dinh Điền Sứ trông coi việc khaikhẩn ruộng đất.
Trong dònghọ, Ngài ban dụ Quốc Thúc Tôn Thất Thăng lo viêc gia huấntrong thân tộc, làm phổ hệ Tôn Thất, đặt chức Tôn NhơnLệnh, Tôn Nhơn Phủ quản trị quốc tộc.
Sau 18 nămở ngôi, Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế băng hà năm 1820. Miếuhiệu Thế Tổ Cao Hoàng Đế (Gia Long). Lăng của Ngài hiệuThiên Thọ, tại làng Định Môn, huyện Hương Trà, tỉnh ThừaThiên.
Tôn thờNgài tại Chánh Án Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinh thànhHuế.
Hệ NhấtChánh có 9 phòng.
Hoàng Hậucủa Đức Thế Tổ Cao Hoàng Đế:
- ThừaThiên Cao Hoàng Hậu, huý Tống Thị, con Ngài Thái BảoKhuông Quận Công, huý Tống Phước Khuông và Bà Quốc PhuNhân Lê Thị.
Hoàng Hậubăng hà năm 1814, hiệp táng tại lăng Thiên Thọ, làng ĐịnhMôn, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
- ThuậnThiên Cao Hoàng Hậu, huý Trần Thị, con Ngài Lễ Bộ Tham TriTrần Hưng Đạt.
Hoàng Hậubăng hà năm 1846. Lăng của Hoàng Hậu là Thiên Thọ Hữu,trong khu vực Thiên Thọ Lăng.
Hai Bà đềutôn thờ tại Án Chánh Miếu ở Thế Miếu trong Đại Nội kinhthành Huế.
Đức Thế TổCao Hoàng Đế (Gia Long) có 13 Hoàng Tử và 18 Công Chúa.
(TríchNguyễn Phước Tộcgiản yếu